11 thg 9, 2009

TRUYEN DỊCH

Đại cao thủ       
Nakajima Atsushi

Nguyễn Đình Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Nhật


Thành Hàm Đan kinh đô nước Triệu có một người đàn ông tên là Kỷ Xương nuôi chí trở thành tay cung đệ nhất thiên hạ. Trong khi tìm thầy, chàng được biết rằng, về ngạch cung tên hiện nay, không ai sánh được với danh thủ Phi Vệ. Nghe đồn cao thủ này có thể bắn bách phát bách trúng một cái lá liễu cách xa một trăm bước. Kỷ Xương lên đường tới yết kiến Phi Vệ, xin làm học trò của ông ta.


Phi Vệ bảo môn sinh mới của mình rằng trước tiên phải học làm sao không chớp mắt. Kỷ Xương quay về nhà, chui xuống nằm ngửa dưới khung cửi của vợ, mắt dán sát vào cái bàn đạp liên tục nâng lên hạ xuống, cố tập không chớp. Vợ chàng không hiểu nguyên do, rất đỗi ngạc nhiên. Nàng bối rối khi thấy chồng nhìn mình trừng trừng từ một góc độ kỳ cục như vậy. Nhưng Kỷ Xương mắng vợ, bắt nàng tiếp tục dệt. Ngày này qua ngày khác, Kỷ Xương cứ nằm trong cái tư thế kỳ quái đó, tập không chớp mắt. Sau hai năm, mặc cho cái bàn đạp chuyển động sát sạt, cạo đứt cả lông mi, Kỷ Xương đã luyện được nhìn mà không hề chớp mắt. Cuối cùng chàng bò ra khỏi khung cửi. Từ đó, ngay cả nếu bị dùi nhọn chọc vào mí mắt, chàng cũng không chớp mắt nữa. Chàng cũng không chớp mắt khi có tia lửa bất ngờ loé vào mắt. Cả một đám tro thình lình bốc lên ngay trước mắt cũng không làm chàng chớp mắt. Cứ như thể cơ mí mắt của chàng đã quên mất phải chớp như thế nào. Ban đêm, thậm chí khi Kỷ Xương ngủ say như chết, mắt chàng vẫn mở trừng trừng. Cuối cùng, khi một con nhện nhỏ chăng tơ giữa hai hàng lông mi mắt của chàng, chàng cảm thấy tự tin hoàn toàn để thông báo với Phi Vệ sư phụ.


Sau khi nghe, Phi Vệ nói: “Chỉ biết không chớp mắt thôi thì chưa đủ. Tiếp theo là phải học nhìn. Khi nào con học được cách nhìn chăm chú sao cho các vật bé nhỏ thấy như vĩ đại, các vật li ti trở thành rõ mồn một, thì hãy lại đến gặp ta.” Kỷ Xương lại quay về nhà, bắt được trong đường chỉ khâu áo lót một con chấy, buộc nó vào một sợi tóc, đem treo dưới cửa sổ hướng nam, rồi nhìn nó suốt ngày. Chàng nhìn con chấy treo dưới cửa sổ ngày này qua ngày khác. Lúc đầu, tất nhiên đó chỉ là con chấy. Hai ba ngày sau, nó vẫn là con chấy. Tuy nhiên sau mười ngày, con chấy có vẻ như to ra. Hết tháng thứ ba thì rõ ràng nó trông to như con tằm. Thời gian trôi qua, phong cảnh ngoài cửa sổ treo con chấy cũng thay đổi. Ánh mặt trời dịu dàng của mùa xuân đổi thành nắng hè oi bức, bầu trời mùa thu trong trẻo đầy ngỗng trắng bay trên cao chuyển sang vòm trời mùa đông màu tro u ám, lốm đốm tuyết ướt. Kỷ Xương vẫn kiên nhẫn nhìn con động vật chân đốt treo dưới cửa sổ. Con chấy này chết, chàng thay bằng con khác, cứ thế hàng chục con. Thấm thoắt ba năm trôi qua. Cho đến một hôm chàng bỗng nhận ra rằng con chấy treo dưới cửa sổ trông đã to bằng con ngựa. Xong rồi! Chàng sung sướng vỗ đầu gối, chạy ra ngoài đường. Chàng không tin vào mắt mình nữa: người trông cao lớn như toà tháp, ngựa to tựa trái núi, lợn bằng quả đồi, gà qué bằng cái chòi canh. Chàng nhảy cẫng lên, chạy lộn vào nhà, tới trước con chấy treo dưới cửa sổ, lắp một mũi tên làm bằng cọng cỏ sóc bồng vào một cây cung bằng sừng, nhằm con chấy và bắn. Lạ kỳ thay, mũi tên xuyên trúng tim con chấy mà không làm đứt sợi tóc.


Kỷ Xương ngay lập tức đến gặp sư phụ để báo tin. Phi Vệ đấm ngực, nhảy lên khen: “Thế là con đã làm được rồi!” Ngay sau đó, Phi Vệ bắt đầu dẫn dắt Kỷ Xương khám phá mọi bí mật của nghệ thuật nghề bắn cung. Kỷ Xương, đã trải qua năm năm rèn luyện cơ bản về nhìn, tiến bộ nhanh chóng kỳ lạ. Sau mười ngày, chàng đã có thể bắn bách phát bách trúng một cái lá liễu từ khoảng cách một trăm bước. Sau hai mươi ngày, chàng đặt một li nước đầy đến mép lên khuỷu tay phải, giương cung, bắn trúng đích mà nước trong li không nhểu ra ngoài một giọt. Sau một tháng, chàng thử bắn thật nhanh một trăm mũi tên. Mũi tên thứ nhất vừa cắm vào đích, mũi tên thứ hai đã bay tới cắm vào đuôi mũi tên thứ nhất. Ngay lập tức mũi tên thứ ba cắm vào đuôi mũi thứ hai, và cứ thế liên tục. Không mũi tên nào rơi xuống đất, vì mũi tên nào cũng cắm trúng đuôi mũi tên trước nó. Khi chàng bắn xong phát cuối cùng, một trăm mũi tên nối đuôi nhau như một chiếc tên duy nhất dài từ đích tới chiếc cung, và đuôi của mũi tên cuối cùng trông như còn đang mắc vào dây cung. Sư phụ Phi Vệ, đứng nhìn bên cạnh, thốt lên: “Được!”


Hai tháng sau, Kỷ Xương tình cờ về thăm nhà, và cãi lộn với vợ. Để dọa vợ, chàng giương chiếc cung bằng gỗ dâu nhằm vào mắt nàng, bắn một mũi tên bằng trúc. Mũi tên bay lướt sát mắt, cắt đứt ba sợi lông mi, song vợ chàng không hay biết gì, không hề chớp mắt, và vẫn tiếp tục nhiếc móc chồng. Tài nghệ và tốc độ bắn cung của chàng đã đạt tới mức tinh diệu.


Không còn gì để học từ sư phụ nữa, Kỷ Xương đột nhiên le lói có tư tưởng xấu. Suy đi tính lại, chàng thấy giờ đây về môn bắn cung chàng không còn địch thủ nào khác ngoài chính Phi Vệ sư phụ. Để trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ chàng phải tìm cách loại Phi Vệ. Thế là chàng bắt đầu bí mật tìm cơ hội. Cho đến một hôm, trong khi đang đi dạo ngoài đồng, bất chợt chàng thấy Phi Vệ một mình từ xa tiến lại. Sau một thoáng quyết định, Kỷ Xương rút tên, lắp vào cung, nhằm vào sư phụ. Phi Vệ, đoán được ác ý của học trò, cũng ngay lập tức lắp tên, giương cung nhằm vào Kỷ Xương. Cả hai thày trò cùng bắn một lúc. Hai mũi tên đâm vào nhau ở giữa đường, rơi xuống đất mà không có tí bụi nào bay lên. Tài nghệ của cả hai đều đạt tới mức siêu phàm. Họ cứ bắn nhau như thế liên tiếp hết phát này đến phát khác cho đến lúc Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương vẫn còn một mũi. Lợi dụng dịp may, Kỷ Xương bắn ngay phát tên cuối cùng. Nhanh như chớp, Phi Vệ nhổ một cành hồng dại bên vệ đường, bắn rụng mũi tên xuống đất. Hy vọng thực hiện mưu đồ đen tối của mình đã tiêu tan, Kỷ Xương bỗng dưng thấy lòng tràn đầy hối hận. Về phía mình, Phi Vệ thở phào vì đã thoát khỏi hiểm nghèo, đồng thời thấy thoả mãn về tài nghệ của chính mình đến quên cả tức giận. Cả hai thày trò lao vào ôm chầm lấy nhau giữa cánh đồng và cùng rơi lệ (Chuyện này xem ra có vẻ kỳ cục theo đạo đức ngày nay. Khi Tề Hoàn Công muốn thưởng thức món mỹ vị mà chưa ai từng nếm thử, quan đầu bếp đã nướng luôn con trai mình đem dâng vua. Cậu thiếu niên 16 tuổi, Tần Thủy Hoàng Đế, ngay trong đêm vua cha mất, đã cưỡng hiếp ái thiếp của vua cha ba lần. Câu chuyện này cũng đã xảy ra trong thời đại như vậy.)


Mặc dù vừa ôm Kỷ Xương vừa khóc, Phi Vệ rất lo ngại học trò sẽ lại tấn công mình lần nữa. Vì thế ông ta tìm cách hướng Kỷ Xương tới một mục đích mới để phấn đấu. Ông nói với gã đệ tử nguy hiểm của mình rằng ông không còn gì để dạy cho chàng nữa. Ông còn nói nếu chàng muốn đạt tới bí mật sâu xa của cung thuật thì hãy đi về phía Tây, vượt qua vách núi Đại Hành, leo lên đỉnh ngọn Hoắc Sơn, nơi ẩn dật của Cam Dăng lão sư – đại cao thủ cung thuật của mọi thời đại. “So với tài nghệ của lão sư, cung thuật của chúng ta chỉ là trò chơi của trẻ con,” Phi Vệ nói. “Giờ đây, ngoài Cam Dăng sư phụ ra, không ai có thể làm thầy con được nữa.”


Kỷ Xương lập tức lên đường đi về phía Tây. Lòng tự ái của chàng bị tổn thương khi thấy cung thuật của mình bị coi là “trò trẻ con”. Nếu thực sự như vậy, mục đích trở thành tay cung đệ nhất thiên hạ vẫn còn là một tương lai xa vời. Nôn nóng so tài với người đó để xem cung thuật của mình có đúng chỉ là trò trẻ con không, chàng rảo bước đi thật nhanh. Thủng giầy rách chân trèo lên các vách đá treo leo, băng qua những chiếc cầu khỉ bắc ngang hẻm núi, Kỷ Xương lên tới đỉnh núi sau một tháng.


Ra đón chàng trai hăng hái là một cụ già có đôi mắt hiền như mắt cừu, bước đi lẩy bẩy như sắp ngã. Cụ có lẽ đã ngoại trăm tuổi. Lưng cụ còng thấp khiến chòm râu bạc kéo lê trên mặt đất theo bước đi của cụ. Thấy cụ có vẻ như bị điếc, Kỷ Xương vội cất cao giọng nói mục đích vì sao chàng tới đây. Nôn nóng phô diễn tài bắn cung của mình, Kỷ Xương không đợi cụ trả lời, rút ngay cây cung làm bằng gốc liễu có dây bện bằng sợi gai đang đeo trên lưng ra. Chàng lắp một chiếc tên có mũi làm bằng đá, giương cung, ngắm vào một đàn chim di trú đúng lúc đó đang bay qua trên trời cao. Chàng buông dây, một phát tên phóng lên, ngay lập tức năm con chim to từ trên trời xanh rơi xuống.


“Giỏi theo cách thông thường,” cụ già mỉm cười hiền từ nói. “Nhưng đó chẳng qua vẫn chỉ là xạ chi xạ (bắn bằng bắn) thôi. Hảo hán xem ra vẫn chưa biết thế nào là bất xạ chi xạ (bắn không cần bắn)” . Cụ già dẫn Kỷ Xương đang đầy tức tối tới một bờ vực cách đó chừng hai trăm bước. Dưới chân Kỷ Xương mở ra một quang cảnh giống y chang một bức bình phong dựng đứng cao bốn ngàn thước, ở xa tít bên dưới chàng thấy một con suối trông nhỏ như sợi chỉ, một độ cao khiến chàng đột nhiên hoa mày chóng mặt. Cụ già chạy lên một phiến đá chênh vênh nhô ra trên bờ vực, rồi quay lại bảo Kỷ Xương: “Nào, có giỏi thì hãy đứng trên tảng đá này trổ tài cho ta xem.” Đã quá muộn để rút lui! Khi Kỷ Xương leo lên, tảng đá lắc lư. Kỷ Xương cố giữ bình tĩnh lắp tên vào cung. Đúng lúc đó một viên sỏi lăn ra, rơi xuống vực. Nhìn theo viên sỏi rơi, Kỷ Xương nằm bò lên tảng đá lúc nào không hay. Chân chàng run bần bật, mồ hôi tuôn ra chảy tới gót chân. Cụ già cả cười, đưa tay đỡ Kỷ Xương bước khỏi tảng đá, rồi tự mình leo lên, nói: “Bây giờ hãy xem cái gọi là bắn đây này.” Vẫn chưa hết run, mặt tái nhợt, song Kỷ Xương chợt nhận ra và hỏi: “Nhưng, còn cái cung? Lão nhân không có gì trong tay cả.” “Cung à?” Cụ già cười lớn, “Bắn mà vẫn phải cần đến cung tên thì chỉ là xạ chi xạ. Còn bất xạ chi xạ là bắn nhưng không cần cả cung lẫn tên.”


Lúc đó trên trời rất cao ngay phía trên đầu họ một con diều hâu đang dang cánh lặng lẽ lượn vòng. Cụ già Cam Dăng nhìn theo con diều hâu trông nhỏ xíu chỉ bằng một hạt vừng, rồi nhanh như cắt, lắp một mũi tên tưởng tượng vào một cây cung vô hình, giương tròn như trăng rằm và buông tay, nhìn kìa, con diều hâu ngừng vỗ cánh, rơi xuống chẳng khác gì một hòn đá. Kỷ Xương kinh hoàng. Lần đầu tiên chàng được chứng kiến bí mật uyên thâm nhất của nghệ thuật bắn cung.


Kỷ Xương ở lại học lão cao thủ trong suốt chín năm trời. Không ai biết chàng đã tu nghiệp như thế nào trong quãng thời gian đó. Sau chín năm, khi chàng xuống núi trở về, mọi người thảy đều ngạc nhiên thấy vẻ mặt chàng đã biến đổi nhiều. Không còn tí bóng dáng nào của vẻ hiếu thắng hung hăng trước kia. Thay vào đó là dung mạo ngây ngô như tượng gỗ của một người ngu độn. Tuy nhiên, khi Kỷ Xương đến thăm thầy cũ, sau bao năm không gặp, thoạt nhìn thấy vẻ mặt Kỷ Xương, Phi Vệ đã cảm thán kêu lên: “Đây chính là đại cao thủ đệ nhất thiên hạ! Chúng ta sẽ không bao giờ có thể bì kịp anh ta.”


Dân thành Hàm Đan nô nức chào đón cao thủ đệ nhất thiên hạ trở về. Họ chờ đợi một cuộc trình diễn tài nghệ bắn cung của chàng. Nhưng Kỷ Xương không đáp ứng nguyện vọng của họ. Ngay cái cung chàng cũng không sờ đến. Có vẻ như chàng đã quăng đi đâu mất cả chiếc cung làm bằng gốc liễu có dây bện bằng sợi gai mà khi xưa chàng từng đem theo lên núi. Khi có người tới chơi hỏi lý do, Kỷ Xương uể oải trả lời: “Tột đỉnh của hành động là không làm gi hết. Tột đỉnh của lời nói là im lặng. Tột đỉnh của bắn là không bắn.” À ra thế! Những người dân vốn rất thông thái của thành Hàm Đan hiểu ngay lập tức. Nhà đại cao thủ không cần sờ đến cây cung đã trở thành niềm tự hào của họ. Kỷ Xương càng không động đến cung tên, danh tiếng về sự vô địch của chàng lại càng được bàn tán ầm ĩ.


Nhiều lời đồn được truyền miệng từ người này sang người khác. Người ta nói rằng ban đêm, cứ đến canh ba, có ai đó luyện cung trên mái nhà Kỷ Xương, nghe rõ cả tiếng dây cung bật. Có người quả quyết đó là vị thần hộ mệnh ẩn náu trong mình nhà đại cao thủ, ban đêm thoát ra khi chàng ngủ để triệt mọi yêu ma định hãm hại chàng. Một thương nhân sống gần nhà chàng nói rằng có đêm đã thấy chàng, rõ ràng cầm cung trong tay, cưỡi mây bay trên mái nhà, đọ tài với hai bậc đại cao thủ xạ thuật đời xưa là Hậu Nghệ và Dưỡng Do Cơ. Những mũi tên ba vị này phóng ra vạch những tia sáng xanh sắc nhọn trên nền trời đêm trước khi biến mất giữa sao Sâm và sao Thiên Lang. Một tên đạo tặc thú nhận có lần định lẻn vào nhà Kỷ Xương, song khi hắn vừa trèo lên bờ tường thì bỗng một luồng sát khí từ trong nhà phóng ra, trúng vào giữa trán, làm hắn ta ngã lăn từ trên tường xuống đất bất tỉnh. Từ đó, bọn tâm địa gian tà đều tránh xa vùng quanh nhà Kỷ Xương, và những bầy chim di trú thông minh cũng không dám bay trên mái nhà chàng nữa.


Danh tiếng lan truyền tận mây xanh, song Kỷ Xương ngày một già đi. Tâm trí đã từ lâu không còn vương vấn tới cung tên của ông có vẻ như ngày càng nhập vào cõi thanh khô, đạm bạc, hư ảo và yên tĩnh. Vẻ mặt vốn đã như tượng gỗ của ông nay lại mất cả mọi biểu hiện. Ông hầu như không cất tiếng. Cuối cùng, người ta không chắc ông còn thở hay không. Những năm cuối đời, lão cao thủ còn nói ông không phân biệt được đâu là mình đâu là người khác, không biết đâu là đúng đâu là sai. Đối với ông mắt cũng như tai, tai cũng như mũi, mũi cũng như mồm.


Bốn mươi năm sau khi từ biệt Cam Dăng sư phụ xuống núi, Kỷ Xương từ giã cõi đời, lặng lẽ như một làn khói. Trong bốn mươi năm cuối cùng ấy, ông không hề nhắc tới xạ thuật, nói chi sờ đến cung tên. Lẽ dĩ nhiên, là một người viết truyện, tôi muốn ông sắm một vai quan trọng trong một sự kiện kích động nào đó để chứng minh cho tài dụng cung siêu phàm của ông. Song, tôi không muốn bóp méo các sự thật đã được ghi trong sử sách. Thực sự là người ta không biết gì về những năm cuối đời ông, ngoài câu chuyện được lưu truyền sau đây.


Chuyện xảy ra khoảng một hai năm trước khi ông qua đời. Một hôm, Kỷ Xương đến chơi nhà một người bạn. Tại đây ông nhìn thấy một vật, mà ông nhớ đó là một dụng cụ song không thể nhớ nổi tên và công dụng của nó. Ông bèn hỏi chủ nhà tên dụng cụ đó là gì và nó được dùng để làm gì. Cho rằng khách hỏi đùa, chủ nhà cười to, làm ra vẻ không biết. Ông lão Kỷ Xương nghiêm nghị nhắc lại câu hỏi. Song chủ nhà không hiểu ý khách, vẫn bối rối cười trừ. Khi Kỷ Xương làm nghiêm nét mặt hỏi lại lần thứ ba thì vẻ kinh ngạc bắt đầu hiện ra trên mặt chủ nhà. Ông ta nhìn trân trân vào mắt Kỷ Xương. Sau khi tin chắc rằng khách không đùa, không điên, và tai mình nghe không nhầm, chủ nhà kinh hãi lắp bắp kêu lên: “Trời đất, thưa phu tử – cao thủ xạ thuật kim cổ vô song, ngài thật sự quên cả cái cung rồi sao? Quên cả tên gọi lẫn công dụng của nó?”


Sau đó ít lâu, tại thành Hàm Đan, hoạ sĩ giấu bút vẽ, nhạc công dứt đứt dây đàn, thợ mộc coi dùng thước là một sự sỉ nhục.


Dịch xong tại Tokyo ngày 9/9/2009


Nguyễn Đình Đăng


Nguồn TALAWAS BLOG 2009

Không có nhận xét nào: