
Bài văn đi vào bộ nhớ
Quãng đời tôi, khi biết đọc sách, tôi đọc được nhiều sách hay. Nhưng những sách hay ấy không ở lâu trong tôi, nay tôi quên cả. Như vậy, tôi biết chúng chưa hay lắm. Duy có một quyển, tôi đọc rối bời, chả hiểu mô tê gì, nhưng có một bài văn kèm theo lời bình làm tôi nhớ mãi. Nhớ từng chữ, từng dấu, nhớ cả dòng xuống hàng…Thật không thể nào quên được. Đó là một bài văn kèm lời bình trong kinh Vô Môn Quan do sư bản chùa Đồng tặng tôi đã 20 năm. Quyển kinh bây giờ thất lạc, nhưng bài văn kèm lời bình đó sống mãi trong tôi. Bài đó như sau:
Thụy Nham Sư Ngạn gọi ông chủ
Hòa thượng Thụy Nham Sư Ngạn mỗi ngày tự gọi:
“Ông chủ”
Rồi tự trả lời:
“Dạ”
Lại nói:
“Tỉnh táo nhé”
“Dạ”
“Mai kia mốt nọ chớ để người gạt nhé”
“Dạ. Dạ”
Lời bình của Vô Môn Huệ Khai: “Ông già Thụy Nham tự biên tự diễn, bày vẽ ra nhiều đầu thần mặt quỉ. Vì sao là một ông gọi, một ông đáp, một ông tỉnh, một ông không bị người gạt? Biết ra rồi thì thật là chẳng phải. Nếu bắt chước ông ta thì đó cũng là kiến giải của loài chồn hoang”.
Chỉ có thế, ngắn ngủn, không văn vẻ, vậy mà khắc sâu trong tâm trí tôi. Nhớ lại bài đó cùng lời bình là tôi vui hoài. Một niềm vui nhẹ tênh mà dài rộng. Mỗi lần nhớ, trong trí tưởng tượng của tôi, hiện ra ông già Thụy Nham Sư Ngạn. Ngài nghiêm túc đến mức dí dỏm. Ngài dí dỏm đến mức sâu thẳm. Và, sâu thẳm đến mức mênh mông. Ngài có nhiều cái “tôi” chạy qua chạy lại lo lắng cho nhau trong một thân xác duy nhất. Ngài già lắm nhưng không ngớt lo toan. Ngài rụng hết răng, cười như trẻ thơ. Ngài mặc áo vá chằng vá chịt, tay chân chai sạn, lăng xăng lít xít lam làm v.v…và v.v…Kể cũng lạ, bài văn trên không còn là chữ nghĩa nữa, mà đã hóa thân thành Hòa thượng Thụy Nham Sư Ngạn chuyển động sờ sờ… Sở dĩ tôi nhớ bài văn, bởi vì tôi nhớ ông già Thụy Nham Sư Ngạn. Hay thật, có chữ hẳn hoi, thế mà đọc lại mất chữ. Mất chữ vì người hiện ra. Mà đã nhớ người, ắt chữ lại hiện ra. Tôi cố học cách viết văn ấy nhưng không được, bởi tôi không đủ nội lực. Các đại thiền sư ngày xưa họ đâu có rèn chữ, chỉ rèn nội lực. Hai tiếng trả lời “Dạ. Dạ” tôi nghe như Hòa thượng nói nhỏ lại, vì bị dặn dò mãi, biết rồi. Còn tiếng “Dạ” trước là “dạ” to vì không biết mình bị kêu chuyện gì. Thật tài tình!
Lời bình của ngài Vô Môn Huệ Khai là lời quở trách đích đáng của bậc thượng đẳng. Lời quở trách cũng dí dỏm, đau điếng và sâu thẳm.
Bài văn không dư một chữ. Không diễn tâm lý, không tả con người, không giải thích, chỉ là sự kiện cụ thể. Ấy vậy mà sinh động vô song, hấp dẫn cực kỳ.
Bài bình thong thả, ôn tồn, dí dỏm của một tinh thần thông suốt sáu cõi, nghìn đời.
Tóm lại, cả bài văn và bài bình, tôi không dự phần được, vì không hiểu thấu cái lý đạo cao xa, nhưng tôi rất thích thú, rất bái phục phong cách viết của các vị đại thiền sư đời xưa. Kiệm lời mà nặng ý. Chỉ trình bày những cốt lõi ấn tượng. Thâm hậu và tuyệt đỉnh tài tình.
Ngô Phan Lưu
Quãng đời tôi, khi biết đọc sách, tôi đọc được nhiều sách hay. Nhưng những sách hay ấy không ở lâu trong tôi, nay tôi quên cả. Như vậy, tôi biết chúng chưa hay lắm. Duy có một quyển, tôi đọc rối bời, chả hiểu mô tê gì, nhưng có một bài văn kèm theo lời bình làm tôi nhớ mãi. Nhớ từng chữ, từng dấu, nhớ cả dòng xuống hàng…Thật không thể nào quên được. Đó là một bài văn kèm lời bình trong kinh Vô Môn Quan do sư bản chùa Đồng tặng tôi đã 20 năm. Quyển kinh bây giờ thất lạc, nhưng bài văn kèm lời bình đó sống mãi trong tôi. Bài đó như sau:
Thụy Nham Sư Ngạn gọi ông chủ
Hòa thượng Thụy Nham Sư Ngạn mỗi ngày tự gọi:
“Ông chủ”
Rồi tự trả lời:
“Dạ”
Lại nói:
“Tỉnh táo nhé”
“Dạ”
“Mai kia mốt nọ chớ để người gạt nhé”
“Dạ. Dạ”
Lời bình của Vô Môn Huệ Khai: “Ông già Thụy Nham tự biên tự diễn, bày vẽ ra nhiều đầu thần mặt quỉ. Vì sao là một ông gọi, một ông đáp, một ông tỉnh, một ông không bị người gạt? Biết ra rồi thì thật là chẳng phải. Nếu bắt chước ông ta thì đó cũng là kiến giải của loài chồn hoang”.
Chỉ có thế, ngắn ngủn, không văn vẻ, vậy mà khắc sâu trong tâm trí tôi. Nhớ lại bài đó cùng lời bình là tôi vui hoài. Một niềm vui nhẹ tênh mà dài rộng. Mỗi lần nhớ, trong trí tưởng tượng của tôi, hiện ra ông già Thụy Nham Sư Ngạn. Ngài nghiêm túc đến mức dí dỏm. Ngài dí dỏm đến mức sâu thẳm. Và, sâu thẳm đến mức mênh mông. Ngài có nhiều cái “tôi” chạy qua chạy lại lo lắng cho nhau trong một thân xác duy nhất. Ngài già lắm nhưng không ngớt lo toan. Ngài rụng hết răng, cười như trẻ thơ. Ngài mặc áo vá chằng vá chịt, tay chân chai sạn, lăng xăng lít xít lam làm v.v…và v.v…Kể cũng lạ, bài văn trên không còn là chữ nghĩa nữa, mà đã hóa thân thành Hòa thượng Thụy Nham Sư Ngạn chuyển động sờ sờ… Sở dĩ tôi nhớ bài văn, bởi vì tôi nhớ ông già Thụy Nham Sư Ngạn. Hay thật, có chữ hẳn hoi, thế mà đọc lại mất chữ. Mất chữ vì người hiện ra. Mà đã nhớ người, ắt chữ lại hiện ra. Tôi cố học cách viết văn ấy nhưng không được, bởi tôi không đủ nội lực. Các đại thiền sư ngày xưa họ đâu có rèn chữ, chỉ rèn nội lực. Hai tiếng trả lời “Dạ. Dạ” tôi nghe như Hòa thượng nói nhỏ lại, vì bị dặn dò mãi, biết rồi. Còn tiếng “Dạ” trước là “dạ” to vì không biết mình bị kêu chuyện gì. Thật tài tình!
Lời bình của ngài Vô Môn Huệ Khai là lời quở trách đích đáng của bậc thượng đẳng. Lời quở trách cũng dí dỏm, đau điếng và sâu thẳm.
Bài văn không dư một chữ. Không diễn tâm lý, không tả con người, không giải thích, chỉ là sự kiện cụ thể. Ấy vậy mà sinh động vô song, hấp dẫn cực kỳ.
Bài bình thong thả, ôn tồn, dí dỏm của một tinh thần thông suốt sáu cõi, nghìn đời.
Tóm lại, cả bài văn và bài bình, tôi không dự phần được, vì không hiểu thấu cái lý đạo cao xa, nhưng tôi rất thích thú, rất bái phục phong cách viết của các vị đại thiền sư đời xưa. Kiệm lời mà nặng ý. Chỉ trình bày những cốt lõi ấn tượng. Thâm hậu và tuyệt đỉnh tài tình.
Ngô Phan Lưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét